Từ hôm ấy về sau, mỗi ngày Sờ-vát-ti-ka đều có ghé vào rừng thăm Sít-da-tơ.

Những hôm nào cắt được đầy gánh cỏ thì Sờ-vát-ti-ka ghé vào và ăn trưa với Sít-da-tơ. Nắng càng gay gắt thì cỏ càng ít đi, vì vậy có hôm phải đến xế chiều Sờ-vát-ti-mới vào thăm vị sa môn trong rừng được. Có khi Sờ-vát-ti-k vào rừng thì gặp lúc Sít-da-tơ đang ngồi thiền tọa. Những lúc ấy cậu bé chỉ ngồi ngắm Sít-da-tơ một hồi rồi lặng lẽ đi ra khỏi rừng, sợ làm phiền nhiễu đến công phu thiền tập của thầy. Chỉ khi nào vào rừng mà gặp Sít-da-tơ đang đi kinh hành thì Sờ-vát-ti-ka mới dám đến gần để được chuyện trò chốc lát.

Năm bảy hôm một lần, Sờ-vát-ti-ka cùng gặp Su-da-ta trong rừng. Hôm nào Su-da-ta cũng đem dâng cho Sít-da-tơ một nắm cơm và một ít thức ăn, hoặc muối mè, hoặc đậu phộng, hoặc nước sốt cà–ri, có hôm chị đem theo cả sữa hoặc đề hồ hoặc đường phèn. Hai chị em đã nhiều lần có dịp nói chuyện ở cửa rừng, bên cạnh những con trâu ăn cỏ. Có khi Su-da-ta đi với cô em gái tên là Supriya, trạc chín mười tuổi. Sờ-vát-tika nghĩ thầm là một hôm nào đó nó cũng sẽ đưa các em nó vào rừng thăm Sít-da-tơ. Nó sẽ ẵm con Bhima. Bala sẽ dắt tay thằng Rupak. Thế nào chúng nó cũng lội qua được khúc sông cạn nhất gần đó.

Su-da-ta đã kể lại cho Sờ-vát-ti-kanghe những gì mà chị ấy biết về vị sa môn tên Sít-da-tơ. Chị ấy đã làm quen với Sít-da-tơ mấy tháng nay rồi, và từ hôm ấy đến nay mỗi ngày chị đều có đem cơm cúng dường Sít-da-tơ vào khoảng trước giờ Ngọ. Cái hôm đầu tiên mà Su-da-ta được gặp Sít-da-tơ là một ngày rằm. Nghe lời mẹ, Su-da-ta mặc sari mới màu hồng, bưng một mâm đồng đầy thức cúng vào cửa rừng để cúng các thần linh. Trên mâm có bánh, có sữa, có đề hồ, có mật. Đó là vào khoảng giữa trời trưa. Trời nắng chang chang. Mới tới bờ sông, Su-da-ta thấy một người nằm sóng soài dưới nắng. Su-da-ta bèn đặt mâm xuống bên bờ cỏ và chạy tới quan sát. Người này còn thoi thóp thở.

Ông ta ốm lắm, chỉ còn da bọc xương. Hai mắt ông ta nhắm nghiền. Má ông ta hóp hẳn lại như người đã lâu ngày thiếu ăn. Tóc và râu của ông ta ra dài, chắc đã lâu ngày rồi không cạo. Nhìn cách phục sức của ông ta, Su-da-ta biết đây là một ông thầy tu núi. Vốn là một cô bé thông minh, Su-da-ta biết rằng ông này té xỉu vì đói quá. Cô bé liền cúi xuống lấy bình sữa rót đầy vào một cái bát nhỏ đem theo. Rồi cô kê bát sữa vào môi người kia và đổ xuống từng giọt. Ban đầu người ấy không đáp ứng. Nhưng sau đó đôi môi động đậy và người ấy há miệng ra. Su-da-ta kê hẳn bát sữa vào miệng người ấy và đổ sữa vào từ từ. Người ấy bắt đầu uống. Chẳng mấy chốc bát sữa đã cạn.

Su-da-ta ngồi xuống một bên bờ cỏ để đợi phản ứng. Người kia từ từ ngồi dậy, mở mắt. Thấy Su-da-ta, người ấy mỉm cười. Ông kéo chiếc khăn choàng lại trên vai, ngồi xếp bằng lại trên bờ cỏ, trong tư thế hoa sen, thân hình rất thẳng, và bắt đầu thở. Thế ngồi của ông rất vững và rất đẹp. Tưởng đây là một vị thần linh của rừng núi hiện ra để thử mình, cô bé chắp hai tay để lạy xuống, nhưng người ấy đã đưa một bàn tay ra ngăn lại.

Su-da-ta còn ngẩn ngơ thì người ấy lên tiếng nhỏ nhẹ bảo cô:

– Con rót thêm cho ta một ít sữa nữa.

Sung sướng, Su-da-ta rót sữa đầy bát dâng lên. Người ấy tiếp lấy và uống cạn. Sữa thật là mầu nhiệm. Trong chưa đầy một khắc đồng hồ, sức khỏe người ấy hình như đã được phục hồi. Mắt người đó thật sáng. Nụ cười người đó thật hiền. Su-da-ta hỏi thăm về duyên cớ tại sao người ấy ngất xỉu giữa đường. Người ấy nói:

– Ta tu ở trong rừng này. Vì tu khổ hạnh lâu ngày nên thân thể ta yếu mòn. Hôm nay ta đã quyết định xuống xóm để hóa trai, nhưng đi đến đây thì kiệt sức. May mà con đến kịp để cứu ta.

Ngồi trên bờ sông, người ấy kể cho Su-da-ta nghe sơ lược về cuộc đời tu hành của ông. Nhờ đó mà Su-da-ta biết được rằng vị sa môn mà mình đã cứu thoát chết tên là Sít-da-tơ, con của một vị quốc vương đang trị vì ở nước Kapilavatthu. Su-da-ta ngồi nghe rất chăm chú, Sít-da-tơ nói với cô bé:

– Ta đã thấy rằng kiềm chế xác thân không phải là con đường có thể giúp con người đạt Đạo. Thân thể không phải chỉ là một dụng cụ. Thân thể là đền thờ của tâm linh, thân thể là chiếc thuyền vượt biển. Vì vậy ta đã từ bỏ con đường kiềm chế xác thân bằng sự đói khát và bằng sự chịu đựng. Ta đã quyết định mỗi ngày sẽ xuống xóm để hóa trai vào giờ Ngọ.

Su-da-ta chắp tay:

– Nếu thầy cho phép thì mỗi ngày con sẽ đem dâng cúng thực phẩm cho thầy. Thầy cứ ở trong rừng mà hành đạo, đừng xuống xóm để khỏi mất thì giờ. Nhà con cũng gần đây thôi, và ba mẹ con cũng sẽ bằng lòng cho con mỗi ngày đem cơm dâng cúng cho thầy.

Sít-da-tơ im lặng. Một lát sau, ông nói:

– Ta vui lòng nhận cơm cúng dường của con mỗi ngày. Nhưng ta cũng muốn thỉnh thoảng đi vào xóm để khất thực và tiếp xúc với bà con trong xóm. Hôm nào con đưa ta tới nhà con nhé. Ta muốn làm quen với ba và mẹ của con. Ta cũng muốn gặp các em bé khác trong xóm.

Su-da-ta mừng rỡ. Cô bé chắp tay bái tạ. Cô rất vui khi nghĩ đến lúc được vị sa môn này ghé lại nhà và thăm ba mẹ của cô. Cô không nghĩ rằng cúng dường cho vị sa môn này là tốn kém. Gia đình cô là một trong những gia đình khá giả nhất ở Uruvela. Nhưng Su-da-ta không muốn nói điều ấy ra. Cô nghĩ đây là một ông thầy tu núi, cúng dường cho ông quan trọng gấp mấy lần cúng dường các vị thần núi thần rừng. Sau này mà ông ấy tìm được Đạo thì cuộc đời sẽ được vơi bớt bao nhiêu là nỗi khổ…

Sít-da-tơ đã chỉ cho Su-da-ta rặng núi Đang-sơ-ri, nơi có những hang động mà ông đã từng cư trú để hành đạo. Rồi ông nói:

– Bắt đầu từ hôm nay, ta sẽ không cư trú ở đó nữa. Bên bờ sông, có một khu rừng rất mát và có một cây pippala thật xum xuê. Ngồi dưới gốc cây ta có thể thấy được cả dòng sông. Ta đã chọn nơi ấy để tu hành. Mai mốt khi con đem theo thức ăn cúng dường cho ta, con sẽ đem tới đấy. Để ta đưa con đi xem qua chỗ ấy cho biết.

Rồi ông đưa Su-da-ta vào thăm khu rừng êm mát bên bờ sông Neranjara. Ông chỉ cho cô bé xem gốc cây pippala mà ông thường ngồi để thiền định. Su-da-ta ngắm thân cây rồi ngẩng lên nhìn cành lá. Cây lớn quá. Cây che mát cả một vùng khá rộng. Đây là một loại cây đa, lá lớn bằng bàn tay Su-da-ta. Lá cây giống như trái tim và có những cái đuôi thật dài. Su-da-ta nghe tiếng chim hót ríu rít. Nơi đây quả là một nơi thanh tịnh và êm mát. Su-da-ta cũng đã có lần tới đây với ba mẹ cô để dâng cúng phẩm vật cho thần linh.

– Vậy đây là nhà mới của thầy, có phải thế không?

Su-da-ta nhìn Sít-da-tơ với hai mắt to và tròn lấp láy: “Mỗi ngày con sẽ vào đây thăm thầy.”

Sít-da-tơ gật đầu. Ông đưa tiễn Su-da-ta ra cửa rừng, rồi trở về gốc cây ngồi thiền tọa.

Từ hôm đó, ngày nào Su-da-ta cũng mang cơm hoặc bánh vào cúng dường vị sa môn, trước khi mặt trời đứng bóng. Có khi cô bé mang theo cả sữa, hoặc đề hồ. Có khi Sít-da-tơ cầm bát tự mình đi vào làng khất thực. Ông đã gặp được cha mẹ của Su-da-ta, và biết rằng cha của Su-da-ta là vị hương cả trong làng. Su-da-ta cũng đưa ông đi và gặp những đứa trẻ khác mà cô bé quen ở trong xóm. Cô cũng đưa ông tới nhà người thợ cạo và nhờ người này cạo sạch tóc và râu cho vị sa môn. Sức khỏe của Sít-da-tơ phục hồi thật mau chóng. Sít-da-tơ cũng cho cô bé thí chủ biết rằng công phu thiền quán của người đang mang lại nhiều hoa trái quan trọng. Cho đến một hôm, Su-da-ta được gặp Sờ-vát-ti-ka.

Hôm ấy Su-da-ta đến sớm và đã được Sít-da-tơ nói cho nghe về cuộc gặp gỡ với Sờ-vát-ti-ka chiều hôm trước. Su-da-ta vừa mới ngỏ ý muốn được gặp Sờ-vát-ti-ka thì Sờ-vát-ti-kađã hiện ra trong rừng. Sau này có dịp gặp Sờ-vát-ti-ka, Su-da-ta đã hỏi thăm về các em của Sờ-vát-ti-ka. Và Su-da-ta cũng đã cùng với Purna tới nhà Sờ-vát-ti-ka chơi. Purna là con hầu mới của Su-da-ta. Con hầu cũ, tên là Radha, đã bị bệnh thương hàn chết cách đây hai tháng. Trong những lần thăm viếng sau này Su-da-ta đã đem cho các em của Sờ-vát-ti-ka một ít áo quần cũ nhưng còn rất tốt. Và Su-da-ta đã ẵm bé Bhima trước sự ngạc nhiên của con hầu Purna. Su-da-ta dặn Purna đừng mách cho ba mẹ cô biết là cô đã ẵm trong tay một em bé ngoại cấp.

Một bữa trưa hôm nọ, bọn trẻ rủ nhau vào thăm Sít-da-tơ khá đông. Các em của Sờ-vát-ti-ka đều có mặt. Su-da-ta rủ theo Ba-la-gúp-ta, Vijayasena, Ulluvillike và Jatilika. Bốn người này đều là bạn gái của Su-da-ta. Su-da-ta cũng mời được chị họ là Nandabala cùng đi. Chị Nandabala đã mười sáu tuổi. Anh Nalaka năm nay đã mười bốn. Còn Subash mới chín tuổi. Mười một đứa ngồi thành một vòng cung trước mặt Sít-da-tơ.

Hôm ấy ngoài thức ăn đem theo để cúng dường vị sa môn, bọn trẻ còn đem theo thức ăn trưa của chúng. Sau khi dâng cơm cho Sít-da-tơ, bọn trẻ cũng mở thức ăn của mình ra ăn trong yên lặng. Bala và Rupak đã được anh dặn dò và huấn luyện kỹ càng rồi cho nên chúng ngồi ăn thật nghiêm trang. Bé Bhima mở to mắt nhìn mọi người: chưa bao giờ bé thấy nhiều người như thế. Bé ngồi thật ngoan trong lòng Sờ-vát-ti-ka và không hề khóc.

Hôm ấy Sờ-vát-ti-kađã cúng dường một ôm cỏ mới cho Sít-da-tơ. Sờ-vát-ti-ka cũng đã nhờ đứa bạn chăn trâu của nó là thằng Gavampati coi trâu giùm trong giấc trưa. Ngoài ruộng trời nắng gắt lắm nhưng trong rừng bọn trẻ đang cùng với vị sa môn ngồi trong bóng cây im mát. Cây pippala này lớn quá, cành lá xòe ra che mát cả một vùng lớn bằng cả mười mấy căn nhà.

Bọn nhỏ chia sớt thức ăn cho nhau. Rupak và bé Bala hôm nay được ăn bánh Cháp-pa-ti với nước sốt cà-ri. Chúng cũng được ăn cơm trắng chấm muối đậu phộng và muối mè. Su-da-ta và Ba-la-gúp-ta đã đem đủ nước uống cho mọi người. Không khí ở đây thật lặng lẽ, nhưng niềm vui ở đây thật lớn lao.

Hôm ấy theo lời thỉnh cầu của Su-da-ta, Sít-da-tơ đã kể cho bọn trẻ nghe về cuộc đời của mình.

Bọn trẻ đã ngồi nghe say mê từ đầu đến cuối.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *